- Article
Authors: Nguyễn, Thị Huyền Vân (2021) - Bình Liêu là một huyện miền núi biên giới của tỉnh Quảng Ninh. Với cộng đồng dân cư đa dân tộc,
còn đậm nét văn hóa truyền thống, cùng cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ, nơi đây có tiềm năng để phát
triển du lịch, nhất là du lịch cộng đồng. Bài viết phân tích những tiềm năng, lợi thế, thực trạng phát
triển du lịch cộng đồng ở huyện Bình Liêu, đồng thời chỉ ra những cơ hội, thách thức mà địa phương
có thể đối mặt khi phát triển du lịch cộng đồng trong thời gian tới. Từ đó, bài viết đưa ra một số định
hướng về phát triển cơ sở hạ tầng, mô hình sản phẩm, thị trường,… cho địa phương nhằm hướng đến
mục tiêu phát triển du lịch cộng đồng bền vững, hài hòa giữa lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội, đảm bảo
an toàn an ninh biên giới.
|
- Article
Authors: Nguyễn, Thị Thúy Hằng (2021) - Ẩm thực là một trong những vấn đề bao trùm toàn nhân loại và luôn mang tính thời sự. Ẩm thực
cũng là một trong những giá trị bất biến, giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, nó mang những
tiêu chí mà từ đó có thể nhận diện đặc trưng khu biệt của từng cộng đồng dân cư khác nhau; dưới góc
độ văn hoá, ẩm thực là một biểu hiện của bản sắc văn hóa. Ẩm thực Hà Nội là sự hội tụ, kết tinh những
tinh hoa của mảnh đất ngàn năm văn vật. Trong bối cảnh mở rộng giao lưu văn hóa và hội nhập quốc
tế, ẩm thực Hà Nội ngày càng phát triển và đa dạng. Ẩm thực Hà Nội ngày nay, trải qua bao thăng trầm
của lịch sử, vẫn giữ được những nét riêng độc đáo, trong khi vẫn tiếp nhận được vô vàn giá trị văn hóa
ẩm thực Đông Tây
|
- Article
Authors: Nam Jangyeop (2021) - Với nhiều nét tương đồng về lịch sử và văn hóa, từ nửa sau thế kỷ XX, Việt Nam và Hàn Quốc đã trải
qua một quá trình gian khổ và lâu dài nhằm thiết lập hòa bình, hiện đại hóa quốc gia, hội nhập với thế
giới bên ngoài và đã giành được những thành tựu to lớn. Ngoại giao văn hóa được xem là một nhân
tố quan trọng giúp Việt Nam và Hàn Quốc hiện đại hóa và hội nhập thành công. Bài viết so sánh chính
sách ngoại giao văn hóa của Hàn Quốc và Việt Nam giai đoạn 2000 - 2020 trên các phương diện bối
cảnh, nội dung và cách thức thực hiện. Việc so sánh không chỉ cho thấy những tương đồng và khác biệt
về chính sách ngoại giao văn hóa của hai nước, mà còn có thể mang lại những bài học kinh nghiệm
cho phía Việt Nam trong lĩnh vực ngoại giao văn hóa.
|
- Article
Authors: Nguyễn, Anh Cường (2022) - Lễ hội truyền thống ở Việt Nam thường sinh ra từ nhu cầu của cộng đồng, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng đó và từ đó có những ảnh hưởng tác động đến đời sống văn hóa của cộng đồng. Trong đời sống hiện đại, có nhiều yếu tố đã làm biến đổi văn hóa trong lễ hội cũng như mục đích, nhu cầu hưởng thụ, sáng tạo và tham gia các hoạt động trong lễ hội của người dân hiện nay.
|
- Article
Authors: Nguyễn, Thị Thanh Vân (2021) - Văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên rất coi trọng hôn nhân và gia đình, điều đó được thể hiện rất rõ qua hệ thống luật tục còn được duy trì đến ngày nay. Luật tục của đồng bào nơi đây có những quy định cụ thể về các mối quan hệ xã hội khác. Hiện nay, những giá trị đạo đức, văn hóa dân tộc người trong luật tục vẫn được coi là chuẩn mực xã hội, là phương thức hữu hiệu để bảo vệ hôn nhân và gia đình của các dân tộc người thiểu số ở Tây Nguyên trước những trái chiều của xã hội hiện đại.
|
- Article
Authors: Nguyễn, Thị Thanh Vân; Nguyễn, Huyền Trang; Võ, Thị Phương Thúy (2020) - Nội dung bài báo tập trung phân tích, tìm hiểu vị trí phân bố, địa hình và tính chất của các di tích có niên đại 10 thế kỷ đầu Công nguyên. Từ đó mở ra hướng nghiên cứu mới tại vùng đất Ninh Bình.
|
- Article
Authors: Lê, Thị Khánh Ly; Nguyễn, Thanh Xuân (2021) - Hành vi lệch chuẩn (HVLC) là hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, bắt nguồn từ sự tiếp thu ồ ạt, không chọn lọc những luồng văn hóa mới của một bộ phận thanh thiếu niên. Trong những năm gần đây, khi nói đến lứa tuổi học sinh trung học, dư luận nói rất nhiều đến: bạo lực học đường, quan hệ tình dục sớm, vi phạm pháp luật, nghiện game/internet... Môi trường giáo dục Hà Nội trong vài năm gần đây cũng xuất hiện những hiện tượng đáng báo động liên quan đến hành vi lệch chuẩn của học sinh. Đã có nhiều nghiên cứu đưa ra các giải pháp giáo dục, điều chỉnh HVLC cho học sinh ở các góc độ tâm lý học, giáo dục học… Bài viết này làm rõ thực trạng lệch chuẩn trong hành vi của học sinh Hà Nội hiện nay, từ đó, đưa ra các giải pháp giáo dục, điều chỉnh HVLC cho học sinh dưới góc nhìn văn hóa học.
|
- Article
Authors: Nguyễn, Thị Hạnh (2020) - Trên thế giới hiện có một số quan điểm khác nhau về bảo tồn di sản văn hóa. Dựa trên những phân
tích, đánh giá thực trạng nghề làm tranh dân gian Đông Hồ, bài viết chỉ ra rằng, định hướng phù hợp
hiện nay là vừa bảo tồn kế thừa, vừa bảo tồn phát triển, trong đó, Nhà nước không chỉ trao quyền tự
chủ cho cộng đồng, mà còn có sự hỗ trợ tối đa bằng các thể chế, chính sách thiết thực. Hai mô hình
quản lý di sản được đề xuất, bao gồm mô hình đồng quản lý của Nhà nước và cộng đồng, doanh
nghiệp và mô hình kết hợp (đan xen) quản lý giữa cộng đồng, Nhà nước và doanh nghiệp, là những gợi
mở thiết thực giúp cho địa phương trong việc quản lý di sản, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
của nghề làm tranh dân gian Đông Hồ.
|
- Article
Authors: Trần, Đức Tùng (2021) - Các khu chung cư cũ ở Hà Nội được biết đến với tên gọi phổ biến như nhà tập thể cũ, khu tập thể, khu tập thể cũ… hình thành từ những năm 1960 của thế kỷ XX như một biểu tượng của quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Những công trình này còn được coi là đặc trưng của lối sống thời bao cấp tại Hà Nội, hiện nay đang xuống cấp trầm trọng. Trên cơ sở điền dã tại khu tập thể Nguyễn Công Trứ, Hà Nội, bài viết này chỉ ra rằng, sự hình thành của kinh tế thị trường, quan niệm về sở hữu tư nhân… đã làm thay đổi lối sống ở khu tập thể. Ở đó, quá trình chuyển đổi các không gian công thành không gian tư, thay đổi mô hình gia đình là đặc điểm của lối sống trong khu tập thể Nguyễn Công Trứ hiện nay.
|
- Article
Authors: Nguyễn, Sỹ Toàn (2021) - Trong hơn 60 năm qua, các cơ sở đào tạo bảo tàng đã cung cấp hàng ngàn cử nhân bảo tàng cho đất nước, góp phần to lớn vào sự nghiệp bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, trước tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0), các cơ sở đào tạo và nguồn nhân lực bảo tàng Việt Nam đã bộc lộ hạn chế, bất cập, sinh viên ra trường khó tìm được việc làm, hoặc làm không đúng chuyên ngành đào tạo, nguồn nhân lực bảo tàng không thích ứng được yêu cầu đổi mới hiện nay. Bài viết này luận bàn về “mô hình liên kết đào tạo gắn với nhu cầu thực tiễn” nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực bảo tàng ở Việt Nam hiện nay.
|